Các công ty quảng cáo tiếp thị vừa thông báo lần đầu tiên hai công ty Việt
Đi bằng hai chân
Theo một chuyên gia quảng cáo, bảng xếp hạng năm 2004 so với các năm khác không có gì thay đổi mấy bởi các vị trí đầu tiên vẫn thuộc về các “đại gia” như Unilever, P&G, Bia Việt Nam, Dutch Lady, Pepsi...
Tuy nhiên, nếu xếp theo chi phí bỏ ra cho từng sản phẩm thì chỉ có nhãn hiệu bia Laser lọt vào danh sách mười sản phẩm được quảng cáo nhiều nhất. Công ty Tân Hiệp Phát đã đầu tư tổng cộng 2,7 triệu USD cho chiến dịch quảng cáo bia Laser, đứng ở vị trí thứ sáu sau một loạt nhãn hàng của các công ty đa quốc gia.
Liệu có thể đo lường mức độ thành công của các nhãn hiệu Việt
Thế nhưng các chuyên gia quảng cáo lại tỏ ra dè dặt khi đánh giá về bia Laser. Theo ông Nguyễn Trung Thẳng, tổng giám đốc Masso Group, một thương hiệu cần một khoảng thời gian khá dài để khẳng định mình, trong khi Laser chỉ mới chính thức được giới thiệu từ đầu năm 2004. Ông Thẳng phân tích: “Vấn đề nằm ở chỗ nhà sản xuất đã định vị sản phẩm như thế nào. Có khi họ định vị sản phẩm của mình thuộc dạng cao cấp nhưng người tiêu dùng lại không nghĩ vậy thì rất khó để thành công”.
Ông Đoàn Sĩ Hiền, chủ tịch hội đồng quản trị Công ty tiếp thị ứng dụng I.A.M Việt Nam, lại nhìn việc thâm nhập thị trường của một sản phẩm dưới một góc độ khác. Ông cho biết để làm một phim quảng cáo chất lượng phải tốn đến vài chục nghìn USD, chưa kể chi phí phát sóng và đăng báo.
Thế nhưng, khi “xài” đến tiếp thị, doanh nghiệp (DN) không nên chỉ nghĩ đến quảng cáo mà phải nghĩ đến giải pháp “trọn gói” để hàng đến tay người tiêu dùng. Ông Hiền khẳng định: “Khâu tiếp thị có thể thành công, nhưng nếu DN không có một hệ thống phân phối hiệu quả và mạnh mẽ thì phỏng có ích gì? Tiếp thị và phân phối như hai chân của một cơ thể. DN không thể tiến lên nếu chỉ... lò cò một chân”.
“Hữu xạ tự nhiên hương” có còn giá trị?
Ông Lý Trường Chiến, giám đốc tiếp thị chuyên nghiệp của một công ty đa quốc gia, cho rằng các công ty Việt Nam khi xây dựng thương hiệu thường chỉ nhìn “ngắn hạn”, đầu tư là muốn thấy kết quả ngay, không nghiên cứu khách hàng mục tiêu cũng như không theo dõi thị trường và sức khỏe thương hiệu.
Nhiều DN còn mang tâm lý kinh doanh “sơ khai”, tức chỉ cần làm sản phẩm tốt là “hữu xạ tự nhiên hương”, phân phối thường theo dòng chảy tự nhiên và thích tự làm mọi việc vì nghĩ mình làm sẽ tốt hơn. Trong khi đó, các công ty đa quốc gia thường đầu tư hơn 15% doanh số cho thương hiệu, phân phối có chiến lược và thuê các đơn vị chuyên môn thực hiện.
Ông Chiến lý giải: “Xây dựng và phát triển một thương hiệu mạnh là rất khó khăn và tốn kém vì vòng đời sản phẩm ngày càng ngắn, thông điệp quảng cáo ngày càng rối và văn hóa tiêu dùng ngày càng cao. Nói như vậy để thấy DN không thể không đầu tư, nhưng quan trọng hơn là phải biết đầu tư hiệu quả”.
Cho đến nay Kinh Đô, Vinamilk... chỉ là những cái tên hiếm hoi của Việt
Theo ông, tính cạnh tranh ở thị trường Việt
Ông Moeller, người đã có sáu năm làm việc ở Trung Quốc, cho biết tại Trung Quốc không phải các nhãn hàng đa quốc gia mà chính là các sản phẩm nội địa đang thắng thế. Cũng như Việt Nam hiện nay, có một giai đoạn các DN Trung Quốc “sống” bằng cách đi sao chép lại sản phẩm của các công ty nước ngoài. Nhưng qua thập niên 1990, họ bắt đầu bước vào một cuộc “lột xác” với sự nhận thức rằng chỉ có tính khác biệt và sáng tạo mới đảm bảo cho sự tồn tại của họ.
Ông Moeller nói: “Các DN Trung Quốc bắt đầu khai thác các khái niệm tiếp thị cơ bản, đồng thời tận dụng lợi thế địa phương, trong đó bao gồm hệ thống phân phối, các mối quan hệ với giới truyền thông và sự am hiểu tâm lý người tiêu dùng địa phương. Đây chính là những thế mạnh riêng của các DN trong nước mà các đối thủ nước ngoài khó lòng cạnh tranh được”.
Post a Comment